Dòng thời gian của Chiến tranh Krym

 Dòng thời gian của Chiến tranh Krym

Paul King

Chiến tranh Krym là cuộc xung đột diễn ra giữa Đế quốc Nga chống lại liên minh quân đội Pháp, Anh, Ottoman và Sardinia. Chiến tranh nổ ra vào mùa thu năm 1853 và kết thúc vào tháng 3 năm 1856 với Hiệp định Paris. Chiến tranh Krym là một cuộc xung đột dẫn đến số người chết lớn và nhiều người để lại hậu quả sâu rộng.

Tháng 2 năm 1853- Thủ tướng Lord Aberdeen bổ nhiệm Stratford Canning làm Đại sứ Anh tại Đế chế Ottoman.

Ngày 2 tháng 3 năm 1853- Hoàng tử Alexander Sergeyevich Menshikov được cử đi thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt và đến Constantinople với các yêu cầu.

Tháng 4 năm 1853- Lãnh chúa Stratford đi thuyền đến Constantinople để tìm kiếm Quốc vương từ chối một hiệp ước do Nga đề xuất mà ông tuyên bố sẽ coi nhẹ tình trạng độc lập của người Thổ Nhĩ Kỳ.

21 tháng 5 năm 1853- Menshikov rời Constantinople, do đó cắt đứt quan hệ.

Ngày 31 tháng 5 năm 1853- Người Nga đưa ra tối hậu thư cho Thổ Nhĩ Kỳ.

Tháng 6 năm 1853- Sau sự đổ vỡ trong các cuộc thảo luận ngoại giao giữa người Ottoman và người Nga, Sa hoàng quyết định gửi một đội quân đến Công quốc Danubian của Moldavia và Wallachia.

Tháng 7 năm 1853- Căng thẳng leo thang dẫn đến việc Anh gửi một hạm đội đến Dardanelles, liên kết với một hạm đội tương tự do Pháp cử đến.

Tháng 7 năm 1853- Quân đội Thổ Nhĩ Kỳ đứng lên chống lại quân đội Nga đã chiếm đóng những gì ngày nay là Romania ngày nay,dọc theo biên giới Nga-Thổ Nhĩ Kỳ. Người Thổ Nhĩ Kỳ được người Anh hỗ trợ trong hành động của họ.

Ngày 23 tháng 9 năm 1853- Hạm đội Anh được lệnh đi thuyền đến Constantinople, Istanbul ngày nay.

Ngày 4 tháng 10 năm 1853- Người Thổ Nhĩ Kỳ Người Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với Nga.

Ngày 5 tháng 10 năm 1853- Chiến tranh Krym bùng nổ.

Tháng 10 năm 1853- Cuộc xung đột xảy ra khi người Thổ Nhĩ Kỳ dẫn đầu một cuộc tấn công chống lại người Nga ở các vùng lãnh thổ Danubian đang tranh chấp.

30 tháng 11 năm 1853- Trận chiến Sinope, một chiến thắng của hải quân Nga chứng kiến ​​việc tiêu diệt một đội tàu Ottoman đang neo đậu trong cảng. Chiến thắng của Nga thúc đẩy sự trả đũa từ các lực lượng phương Tây.

Ngày 3 tháng 1 năm 1854- Người Ottoman nhận được sự hỗ trợ ở Biển Đen khi các hạm đội của Pháp và Anh tiến vào vùng biển này.

Ngày 28 tháng 3 năm 1854- Anh và Pháp tuyên chiến với Nga.

Tháng 8 năm 1854- Áo, nước vẫn trung lập trong cuộc chiến, chiếm đóng các công quốc Danubian mà Nga đã sơ tán vài tháng trước đó.

Ngày 7 tháng 9 năm 1854- Quân đội Đồng minh do chỉ huy người Pháp Maréchal Jacques Leroy de Saint-Arnaud và chỉ huy người Anh Lord Fitzroy Somerset Raglan ra khơi từ cảng Varna của Ottoman với khoảng 400 tàu. Họ rời khỏi lãnh thổ Ottoman mà không có kế hoạch tấn công rõ ràng, việc thiếu kế hoạch sẽ là đặc điểm của phần lớn cuộc xung đột.

Ngày 14 tháng 9 năm 1854- Quân đội Đồng minhđến Crimea.

Ngày 19 tháng 9 năm 1854- Cuộc chạm trán đầu tiên tại Sông Bulganek.

Ngày 20 tháng 9 năm 1854- Trận chiến Alma diễn ra, được đặt tên theo dòng sông Alma. Cuộc tấn công điên cuồng và thiếu suy nghĩ diễn ra giữa quân đội Đồng minh chống lại lực lượng Nga.

Quân Đồng minh hành quân về phía Sevastapol mà họ cho là có ý nghĩa chiến lược trong khi quân Nga tiến tới Cao nguyên Alma, một vị trí cung cấp một số biện pháp phòng thủ, do chỉ huy của họ là Hoàng tử Alexander Sergeyevich Menshikov chỉ huy.

Quân đội Người Pháp truy đuổi người Nga đến tận vách đá trong khi người Anh cuối cùng buộc người Nga phải quay lại bằng sức mạnh súng trường của họ. Người Nga buộc phải rút lui. Con số đổ máu đã lên tới hàng nghìn người, với tổng số khoảng 10.000 người, gần một nửa trong số họ là người Nga.

Ngày 17 tháng 10 năm 1854- Cuộc vây hãm Sevastapol được đánh dấu bằng việc hải quân Đồng minh bắn phá thành phố sáu lần. Trong quá trình bao vây thành phố, nhiều trận chiến quan trọng sẽ xảy ra.

Thành phố có tầm quan trọng chiến lược vì đây là nơi đóng quân của Hạm đội Biển Đen của Sa hoàng, được coi là mối đe dọa đối với Địa Trung Hải.

Cảng sẽ vẫn cực kỳ quan trọng trong suốt cuộc chiến, với các lực lượng Đồng minh xoay sở để bao vây Sevastapol chỉ sau khi quân đội Nga rút lui. Cuộc bao vây sẽ chỉ kết thúc gần một năm sau khi những nước đi đầu tiên được thực hiện.

23 tháng 10 năm 1854- FlorenceNightingale và khoảng 38 y tá khác đến từ Anh để giúp chăm sóc những người bị thương.

25 tháng 10 năm 1854- Trận Balaclava là một phần của cuộc xung đột rộng lớn hơn liên quan đến cuộc bao vây Sevastapol.

Vào tháng 10, các lực lượng Nga tập hợp quân tiếp viện, đông hơn rất nhiều so với đối thủ Đồng minh của họ. Người Nga sau đó mở cuộc tấn công vào căn cứ của Anh, ban đầu giành quyền kiểm soát các rặng núi quan trọng xung quanh cảng. Mặc dù vậy, quân Đồng minh vẫn cố gắng giữ vững Balaklava.

Xem thêm: Sức khỏe sa sút của Henry VIII 15091547

Khi quân Nga bị cầm chân, lực lượng Đồng minh đưa ra quyết định quan trọng là thu hồi một số súng của họ, một lựa chọn định mệnh dẫn đến Cuộc tấn công ánh sáng khét tiếng Lữ đoàn.

Kết quả là sự hỗn loạn và thông tin sai lệch giữa các sĩ quan khiến khoảng sáu trăm người do Lord Cardigan chỉ huy lao thẳng vào một cuộc tấn công dài một dặm rưỡi cam chịu, đối mặt với các phát súng từ ba hướng khác nhau. Khoảnh khắc định mệnh này trong cuộc chiến đã được Alfred Lord Tennyson tưởng nhớ trong bài thơ nổi tiếng của ông.

Phụ trách Lữ đoàn nhẹ

26 tháng 10 năm 1854- Trận chiến Little Inkerman

Ngày 5 tháng 11 năm 1854- Trận Inkerman dẫn đến việc Anh và Pháp nắm giữ chiến trường và buộc Nga phải rút quân.

Tháng 1 năm 1855- Benjamin Disraeli, Lãnh đạo phe đối lập, đổ lỗi cho Lord Aberdeen và đại sứ Anh Stratford về vai trò của họ trong việc xúi giụcxung đột, chắc chắn dẫn đến một loạt các sự kiện, một cuộc điều tra tiếp theo và sự từ chức của Aberdeen.

Xem thêm: Lịch sử của Golf

Ngày 10 tháng 1 năm 1855- Người Nga hủy bỏ cuộc tấn công tại Balaklava.

Ngày 26 tháng 1 năm 1855- Người Sardinia tiến vào chiến tranh và gửi 10.000 quân để hỗ trợ các lực lượng Đồng minh.

Ngày 17 tháng 2 năm 1855- Trận Eupatoria, một thành phố cảng quan trọng ở phía tây Crimea. Quân Nga do Tướng Khrulev chỉ huy cố gắng mở một cuộc tấn công bất ngờ vào các đơn vị đồn trú của Ottoman, nhưng cuối cùng thất bại khi quân Ottoman và hạm đội Đồng minh đáp trả mạnh mẽ, khiến Khrulev không còn cách nào khác là phải rút lui.

Ngày 20 tháng 2 năm 1855- Cuộc tấn công bị hủy bỏ của lực lượng Đồng minh tại Chernaya.

Ngày 22 tháng 2 năm 1855- Quân đội Nga tấn công chiếm thành công và cố gắng củng cố Mamelon (một gò đồi chiến lược).

Ngày 24 tháng 2 năm 1855- Pháp mở cuộc tấn công vào "Công trình trắng" nhưng không thành công.

Ngày 9 tháng 4 năm 1855- Cuộc oanh tạc lần thứ 2 của lực lượng Đồng minh nhằm vào Sevastapol.

Ngày 19 tháng 4 năm 1855- Thành công Cuộc tấn công của quân Anh vào các hố súng trường.

Ngày 6 tháng 6 năm 1855- Trận bắn phá thành phố Sevastapol lần thứ 3.

Ngày 8-ngày 9 tháng 6 năm 1855- Lực lượng Đồng minh tấn công thành công "Công trình trắng", Mamelon và “The Quarries” (8-9 tháng 6 năm 1855)

Ngày 17 tháng 6 năm 1855- Trận bắn phá thủ đô Sevastapol lần thứ 4.

Cuộc vây hãm Sevastapol

Ngày 18 tháng 6 năm 1855- Cuộc tấn công của quân Đồng minh không thành công trước Malakoff và GreatRedan.

Ngày 16 tháng 8 năm 1855- Trận Chernaya. Chiến đấu ở ngoại ô Sevastapol, trận chiến là một cuộc tấn công của Nga hành động theo lệnh của Sa hoàng Alexander II. Kế hoạch là đẩy lùi lực lượng Đồng minh và chấm dứt cuộc bao vây thành phố. Kết quả là một chiến thắng của quân Đồng minh buộc Nga phải rút lui.

Ngày 17 tháng 8 năm 1855- Cuộc oanh tạc lần thứ 5 vào thành phố bị bao vây Sevastapol.

Ngày 5 tháng 9 năm 1855- Cuộc oanh tạc lần thứ 6 và cũng là lần cuối cùng vào Sevastapol của lực lượng Đồng minh, kết thúc cuộc bao vây thành phố kéo dài một năm .

Ngày 8 tháng 9 năm 1855- Đồng minh tấn công Malakoff, Little Redan, Bastion du Mat và Great Redan. Quân Pháp giành được lợi thế chiến lược trong các tuyến phòng thủ của Nga.

Ngày 9 tháng 9 năm 1855- Quân Nga rút lui khỏi Sevastopol và kết thúc cuộc bao vây.

Ngày 11 tháng 9 năm 1855- Cuộc vây hãm Sevastapol kết thúc. Quân Nga sơ tán khỏi thành phố và cho nổ tung pháo đài cũng như đánh chìm tàu ​​của họ.

Cuộc chiến bước sang một giai đoạn khác.

29 tháng 9 năm 1855- Quân Nga tấn công Kars rất tàn bạo và kéo dài bảy giờ. Họ không thành công.

Tháng 10 năm 1855- Người Ottoman đang rất cần quân dự trữ ở Kars khi họ cạn kiệt nguồn cung cấp. Do điều kiện thời tiết nguy hiểm, quân tiếp viện không thể đến được nơi đóng quân.

25 tháng 11 năm 1855- Tướng Murillesov đầu hàng Kars. Người Nga bị sốc trước các điều kiện.

Ngày 16 tháng 1 năm 1856- Sa hoàng chấp nhận người Áoyêu cầu.

Ngày 1 tháng 2 năm 1856- Nga cảm thấy bị áp lực trước mối đe dọa của Áo gia nhập Đồng minh, buộc phải thảo luận sơ bộ về các điều khoản và điều kiện hòa bình.

Ngày 24 tháng 2 năm 1856- Hội nghị Hòa bình Paris khai mạc.

Ngày 29 tháng 2 năm 1856- Đình chiến ở Crimea.

Hiệp định Paris

Ngày 30 tháng 3 năm 1856- Hiệp định Paris được ký kết.

Hiệp ước giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ và vẽ lại ranh giới một lần nữa.

Tuy nhiên, các vấn đề về chủ nghĩa bành trướng của Nga và tầm quan trọng của Đế chế Ottoman sẽ tiếp tục là một điểm nổi bật trong các sự kiện địa chính trị.

Jessica Brain là một nhà văn tự do chuyên về lịch sử. Có trụ sở tại Kent và là người yêu thích mọi thứ thuộc về lịch sử.

Paul King

Paul King là một nhà sử học đam mê và đam mê khám phá, người đã dành cả cuộc đời mình để khám phá lịch sử hấp dẫn và di sản văn hóa phong phú của nước Anh. Sinh ra và lớn lên ở vùng nông thôn hùng vĩ của Yorkshire, Paul đã đánh giá cao những câu chuyện và bí mật được chôn giấu trong những cảnh quan cổ xưa và các địa danh lịch sử rải rác khắp đất nước. Với tấm bằng Khảo cổ học và Lịch sử của Đại học Oxford nổi tiếng, Paul đã dành nhiều năm nghiên cứu kho lưu trữ, khai quật các địa điểm khảo cổ và bắt đầu những chuyến hành trình phiêu lưu khắp nước Anh.Tình yêu của Paul dành cho lịch sử và di sản có thể cảm nhận được trong phong cách viết sống động và hấp dẫn của ông. Khả năng đưa độc giả quay ngược thời gian, khiến họ đắm chìm trong tấm thảm hấp dẫn về quá khứ của nước Anh, đã mang lại cho ông danh tiếng được kính trọng với tư cách là một nhà sử học và người kể chuyện nổi tiếng. Thông qua blog hấp dẫn của mình, Paul mời độc giả tham gia cùng anh trong chuyến khám phá ảo về kho báu lịch sử của nước Anh, chia sẻ những hiểu biết sâu sắc được nghiên cứu kỹ lưỡng, những giai thoại hấp dẫn và những sự thật ít được biết đến.Với niềm tin vững chắc rằng hiểu biết về quá khứ là chìa khóa để định hình tương lai của chúng ta, blog của Paul đóng vai trò là một hướng dẫn toàn diện, giới thiệu cho người đọc nhiều chủ đề lịch sử: từ những vòng tròn đá cổ bí ẩn của Avebury đến những lâu đài và cung điện tráng lệ từng là nơi ở của Những vị vua và hoàng hậu. Cho dù bạn là một dày dạn kinh nghiệmngười đam mê lịch sử hoặc ai đó đang tìm kiếm lời giới thiệu về di sản đầy mê hoặc của nước Anh, thì blog của Paul là một nguồn thông tin hữu ích.Là một du khách dày dạn kinh nghiệm, blog của Paul không chỉ giới hạn ở những tập sách bụi bặm của quá khứ. Với con mắt thích phiêu lưu, anh ấy thường xuyên bắt tay vào các chuyến khám phá tại chỗ, ghi lại những trải nghiệm và khám phá của mình thông qua những bức ảnh tuyệt đẹp và những câu chuyện hấp dẫn. Từ vùng cao nguyên gồ ghề của Scotland đến những ngôi làng đẹp như tranh vẽ của Cotswold, Paul đưa độc giả đi theo những chuyến thám hiểm của mình, khai quật những viên ngọc ẩn giấu và chia sẻ những cuộc gặp gỡ cá nhân với truyền thống và phong tục địa phương.Sự cống hiến của Paul trong việc quảng bá và bảo tồn di sản của nước Anh còn vượt ra ngoài blog của anh ấy. Anh tích cực tham gia vào các sáng kiến ​​bảo tồn, giúp khôi phục các di tích lịch sử và giáo dục cộng đồng địa phương về tầm quan trọng của việc bảo tồn di sản văn hóa của họ. Thông qua công việc của mình, Paul không chỉ cố gắng giáo dục và giải trí mà còn truyền cảm hứng đánh giá cao hơn đối với tấm thảm di sản phong phú tồn tại xung quanh chúng ta.Tham gia cùng Paul trong cuộc hành trình hấp dẫn của anh ấy xuyên thời gian khi anh ấy hướng dẫn bạn mở khóa những bí mật về quá khứ của nước Anh và khám phá những câu chuyện đã hình thành nên một quốc gia.